Thứ Ba, 6 tháng 10, 2020

Chẳng phụ Như Lai, chẳng phụ nàng - Chương 2

 


CHƯƠNG 2 - THỜI NIÊN THIẾU - HÒA THƯỢNG VÀ NI CÔ

Sau khi tỉnh lại, tôi nhận ra tôi đang ở giữa một đoàn người rất kỳ lạ, có đàn ông lẫn phụ nữ, đặc trưng diện mạo của họ rất khác lạ: mũi cao mắt sâu, đôi môi mỏng, mặt tròn cổ ngắn, làn da trắng mịn, tròng mắt màu nâu. Đàn ông tráng kiện mạnh khỏe, đàn bà đầy đặn nở nang, ai nấy đều rất cao lớn. Đàn ông hay phụ nữ cũng đều cắt tóc ngắn, màu tóc nâu và xoăn xoăn. Cách ăn mặc phục sức của họ càng lạ lùng hơn, đàn ông mặc áo ngắn cổ bẻ chít eo, ống tay áo hẹp, mang giày ống cao đến tận đầu gối, sau lưng giắt kiếm, phụ nữ phục sức đơn giản hơn nhiều, áo dài đến đầu gối, vai phải để trần, tay áo bên trái cũng hẹp, đeo khăn quàng cổ bằng sợi bông, và cũng mang giày ống cao cổ.

Tôi không khỏi khâm phục bản thân, trong tình trạng đói lả khát khô mà vẫn có thể đưa ra nhận xét về diện mạo phục sức một cách chuyên nghiệp chỉ qua vài lần đưa mắt quan sát. Có điều là, bây giờ những điều này không còn quan trọng nữa, bởi vì tôi đã ngửi thấy mùi của thức ăn rồi.

Là mấy cái bánh và một bát nước mì còn nóng hôi hổi, kích thích tuyến nước bọt của tôi hoạt động hết công suất. Từ tay một người phụ nữ tuổi chừng bốn mươi, tôi vội vàng đón lấy, nói tiếng cảm ơn qua loa, rồi ăn ngấu ăn nghiến như sắp chết đói đến nơi. Mấy cái bánh bị tôi càn quét một hơi hết sạch, nước mì cũng bị tôi húp đến giọt cuối cùng, dạ dày tôi rốt cuộc cũng đã có phản ứng. Thực ra tôi vẫn còn muốn ăn nữa, đang định mạo muội hỏi họ rằng có thể ăn thêm một chút nữa hay không, thế là đột nhiên phát hiện: bất đồng ngôn ngữ.

Bất đồng ngôn ngữ là chuyện bình thường, những người này nhìn là biết không phải người Hán, tôi cũng không biết mình rốt cuộc có trở về thời cổ đại hay không. Cũng có khi vừa rồi tôi chỉ làm một chuyến bay miễn phí, rơi vào một sa mạc nào đó vùng trung đông hoặc châu phi, rồi lại lạc vào một bộ lạc du mục lạc hậu, kết quả vẫn là thế kỷ 21.

Giữa những tiếng xì xà xì xồ nghe không tài nào hiểu nổi, tôi càng nghĩ càng rầu rĩ cả người, đột nhiên có hai người vén lều bước vào, họ vừa vào trong, những người khác lập tức im bặt, sắc mặt cũng trở nên cung kính. Tôi có thể nhận ra người vừa đến chắc chắn có địa vị không hề tầm thường, nhưng khi hai người ấy đứng trước tấm thảm chỗ tôi đang nằm, tôi cả kinh há hốc mồm, hồi lâu cũng chưa khép miệng lại được.

Là một ni cô tầm bao mươi tuổi và một tiểu hòa thượng khoảng mười lăm mười sáu tuổi. Thân phận này đã rất kỳ lạ rồi, nhưng càng khiến người ta ngạc nhiên hơn đó là, từ trên người họ tỏa ra một thứ khí chất cao quý tự nhiên, dù chỉ là im lặng đứng đó, cũng hiển hiện tinh hoa hàm ẩn không chút tầm thường.

Diện mạo của ni cô cũng không khác lắm so với những người phụ nữ ở chung quanh tôi, nhưng làn da của bà trắng trẻo hơn họ. Đôi mắt rất to, lông mày dày rậm, đôi đồng tử màu nâu nhìn tôi chăm chú, khiến tôi cảm thấy một thứ áp lực vô hình. Thân hình bà nở nang đầy đặn, chiếc áo cà sa màu rượu chát trên người không thể nào che giấu được dáng vẻ đẹp đẽ của bà. Chỉ là tôi cảm thấy phần trán của bà không như những người bình thường khác, giống như từng bị cái gì đè bẹp xuống, đổ về phía sau, bởi vì cái đầu trọc lóc, nên càng thấy kỳ dị hơn. Tôi nhớ người Ai Cập và cả người Ba Tư cổ đại đều có tập tục ép bẹp trán từ nhỏ như vậy, có điều chỉ hạn chế trong thành viên hoàng tộc. Không biết bà như thế là do bẩm sinh hay là cố ý ép dẹp đầu. Chẳng qua cái trán dẹp đó chẳng thể nào che giấu được vẻ đẹp của bà, cả người bà hàm súc ý vị từng trải, chín chắn.

Tôi lại đánh giá tỉ mỉ vị hòa thượng thiếu niên tầm mười lăm mười sáu tuổi kia, không khỏi thầm khen trong bụng, thật sự vô cùng điển trai nho nhã, ăn đứt người khác! Cũng là mũi cao, mắt sâu, nhưng không hề có vẻ thô lậu như những người đàn ông kia. Cả khuôn mặt tựa như một pho tượng Hy Lạp được điêu khắc hoàn hảo, những đường nét rõ ràng mang đến cảm giác lập thể tuyệt đối. Ngũ quan vô cùng hài hòa, hàng lông mày dày rậm, sống mũi cao thẳng tắp, đôi đồng tử màu xám nhạt được nạm vào khuông mắt vừa to vừa sâu thăm thẳm, trong veo như bầu trời cao vời vô tận phía trên sa mạc Gobi. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng tự cậu ấy đã tỏa ra hào quang rạng rỡ, lúc nhìn tôi, ánh mắt mang theo mấy phần dịu dàng, mấy phần tò mò nghiên cứu.

Đôi môi của cậu ấy rất mỏng, viền môi rõ ràng, lúc nhếch miệng sẽ cong lên một độ cong thuần khiết tuyệt đẹp. Khuôn mặt hẹp dài, cằm nhọn như đẽo gọt, chiếc cổ cao gầy thon dài đẹp đẽ tựa thiên nga. Làn da của cậu không trắng trẻo nhưng những người khác trong lều, mà có màu bánh mật. Chiếc cà sa to rộng bao phủ toàn thân, chiều cao gần một mét bảy càng khiến thân hình cậu cao lớn, nhưng cơ thể vẫn còn gầy ốm do chưa phát triển đầy đủ. Hiện tại cậu vẫn đang tuổi ăn tuổi lớn, ngày tháng trôi qua, hẳn khi trưởng thành cậu sẽ cao đến hơn một mét tám.

Tôi chăm chú nhìn hai con người kỳ lạ trong lều, trong đầu vô số ý nghĩ vùn vụt lướt qua. Tôi nghe họ mở miệng nói chuyện với tôi, trời ơi, là tiếng Hán, có điều không được mạch lạc cho lắm.

Tôi cố hết sức lắng nghe, phân tích cuối cùng cũng hiểu họ hỏi tôi từ đâu đến đây, vì sao lại lưu lạc chốn này. Tôi đau khổ ngẩng mặt lên: "Các vị có thể nói cho tôi biết: tôi đang ở đâu và nơi này là quốc gia nào hay không?"

Ni cô xinh đẹp kia rõ ràng là không nghe hiểu tôi nói gì, có điều hòa thượng thiếu niên có vẻ là hiểu được. Cậu ấy đột nhiên ngồi xuống, gương mặt tuấn tú trong veo nhanh chóng phóng to ra trước mặt tôi. Tôi nhìn đăm đăm ngũ quan đoan chính của cậu, tim bất chợt đập mạnh một tiếng, tự nhiên khiến tôi giật mình hoảng hốt.

"Wen Shu Ni, chúng tôi đến, sắp rồi. Cổ là người Hán á?

Đang rầu rĩ vì tim đập mạnh chẳng rõ vì sao, chợt nghe thấy cậu ta đảo lộn chủ ngữ vị ngữ, phát âm ngọng líu ngọng lô với vẻ mặt đầy nghiêm trang như vậy, khiến tôi không nhịn được mà phì cười một tiếng.

Cậu ta có vẻ ngượng ngùng, gương mặt hơi ửng đỏ lên: "Tiếng Hán, tôi, nói, không tốt."

Cậu ta quay đầu lại, nói xì xà xì xồ gì đó với ni cô xinh đẹp kia. Tôi vội vàng nín cười, nhớ lại cậu ta vừa nhắc đến Wen Shu Ni, đó là nơi nào thế nhỉ? Tôi lục lọi mọi dữ liệu trong đầu dựa theo phát âm của cậu ta, có vẻ như đây không phải là một địa danh trên đất Hán.

Cậu ấy lại quay sang tôi nói tiếp: "Cổ, đâu, đi?"

Tôi thử thăm dò: "Trường An, có biết không?"

Thấy cậu ấy gật đầu, tôi liền thở hắt ra một hơi. May quá, địa danh Trường An đã tồn tại ở thời đại này rồi.

"Nhưng mà..." Cậu ấy nhìn tôi, có vẻ do dự, "Rất xa, một người, cổ?"

Tôi bất đắc dĩ gật đầu, lúc này ngoại trừ Trương An tôi cũng không nghĩ ra được mình có thể đi đâu, đến đó không cần biết thế nào, ít nhất vẫn có thể hiểu được ngôn ngữ.

"Chúng tôi, đi Ku Zi, cổ, cùng đường, có thể."

Thấy cậu ấy gian nan nặn ra từng chữ, tôi rất muốn cười phá lên, nhưng lại phải cố gắng nín nhịn. Người ta đã cứu tôi, lại còn có thể giao tiếp với tôi, đã là rất không dễ dàng gì rồi. Trong lòng tôi lại suy nghĩ, "Ku Zi" là nơi nào? Tôi đáp xuống đây đã được bảy tám tiếng đồng hồ, nhưng vẫn chưa rõ vị trí địa lý và thời đại lịch sử mình đang ở. Haiiizzzz, đường đường là một nghiên cứu sinh khoa lịch sử hàng thật giá thật của một trường đại học danh tiếng, thế mà mặt mũi trường đều bị tôi ném đâu mất sạch.

"Cổ, tền gí?"

"Hả?" Tôi hoang mang, chưa kịp hiểu cậu ta nói gì. Cậu ta hỏi lại lần nữa, lúc này tôi mới hiểu, té ra 'tền gí = tên gì'.

"À, tôi tên là Ngải Tình."

Tên gọi của tôi từ lâu đã là trò cười cho mọi người. Từ nhỏ đến lớn tôi đều gắn với biệt hiệu: LOVE. Đám con trai luôn rất thích gào lên với tôi một cách thô lỗ: Aaa, MY LOVE! Tôi từng kháng nghị, bảo bố mẹ đổi tên, nhưng đều bị họ bác bỏ. Người ta gọi mãi rồi tôi cũng quen. Gọi 'Ái Tình' cũng chẳng có vấn đề gì, tiếc là dù bị gọi quanh năm suốt tháng, nhưng thần tình yêu của tôi vẫn mãi chẳng thấy tăm hơi.

"Tôi tên là..."

Cậu ấy phun ra một tràng âm thanh thật là dài, tôi chẳng thể nào nhớ nổi, chỉ biết há mồm nhìn cậu ấy. Cậu ấy rất hiểu ý người khác, lặp đi lặp lại tận ba lần. Căn cứ theo phát âm của cậu, tôi tim được những chữ Hán tương ứng: Ku-mo-ro-ji-ba, thật sự khá là khó đọc. Tôi cố hết sức lẩm bẩm cho thuộc: Ku-mo-ro-ji-ba, Kumorojiba, Kumorojiba...

Khóe môi của cậu ấy càng lúc càng giương cao lên, rốt cuộc cũng cười ra tiếng. Giọng cười trong trẻo thanh tân, như dòng suối trong vắt chảy róc rách nơi khe núi. Nhớ lại tôi vừa cười cậu ấy phát âm chữ Hán không chuẩn, bây giờ bị cậu ấy cười lại, mặt tôi phút chốc hơi nóng lên.

Cậu ấy chỉ cười một chút thôi, nhìn thấy sắc mặt ngượng ngùng của tôi, vội vàng nín bặt, nghiêm nghị đưa tay chỉ ni cô xinh đẹp đứng phía sau: "Tôi, mảo thăn, Jiba."

Bây giờ tôi đã có thể thích ứng với khẩu âm của cậu ấy, tự động dịch ra: 'mảo thăn = mẫu thân'.

Ni cô xinh đẹp này lại là mẹ của cậu ấy sao? Thế gia Sa môn à? Trong lòng không khỏi nghĩ: Nhìn cậu ta vẫn còn thiếu niên, có phải là do mẹ cậu hướng cậu vào cửa Phật không nhỉ? Lòng đột nhiên dâng lên một tia đáng tiếc, nhưng rất nhanh liền lắc đầu rũ bỏ ý nghĩ không nên kia. Jiba? Không biết đó là tên gọi của bà ấy hay là tôn xưng đối với bà nhỉ? Tôi thử thăm dò gọi bà một tiếng Jiba, bà liền lịch sự gật gật đầu.

"Cổ, nghí ngoi som đi, chúng ta, ngai mai, lến đương." (phiên dịch: Cô nghỉ ngơi sớm đi, ngày mai chúng ta lên đường.)

Sau khi tiểu hòa thượngvà ni cô đi, tôi và bốn người phụ nữ khác cùng ở lại trong một chiếc lều. Tuy nghe không hiểu họ nói những gì, nhưng họ đều rất thân thiện. Tôi lại không biết xấu hổ nói muốn ăn thêm, ngay lúc họ đang sắp xếp chăn chiếu ấm áp cho tôi ngủ nghỉ.

Cứ thế, tôi bỗng nhiên rơi vào một môi trường sống hoàn toàn xa lạ, giao tiếp không thuận lợi, đã vậy không biết mình đang ở đâu. Bên ngoài căn lều, loại gió riêng biệt chỉ có ở sa mạc mặc sức rít gào, như than như khóc trong bóng đêm tịch mịch cô liêu. Tôi chẳng kiên cường như vẻ ngoài chút nào, vừa nhắm mắt lại, cảm xúc nhớ nhà lập tức dâng trào, thổn thức bên gối. Không muốn phải rơi nước mắt vì nhớ bố mẹ, tôi vận dụng tất cả những cách đánh lạc hướng thường thấy nhất.

Trong đầu chợt hiện lên những trang bị, vật dụng chung quanh mà ban nãy trước khi ngủ tôi đã chú ý quan sát, sau đó đặt cho từng thứ một một cái tên thật chuyên nghiệp: tôi ngủ trên một tấm thảm nhung có hoa văn hình thoi, gối đầu bằng gấm có hoa văn hươu nai, đắp một tấm chăn hoa văn hình tam giác, bình đựng nước là bình sứ trang trí hoa văn mắt lưới, thứ vừa đựng bánh lúc nãy là một chiếc mâm bằng gốm màu xám tro.

Tôi nghĩ có lẽ tôi đã về thời cổ đại thật, bởi vì kỹ thuật chế tác đồ gốm này vẫn còn rất thô sơ. So với trình độ làm gốm sứ ở Trung Nguyên mà nói, kỹ thuật thô sơ này phải cách thời hiện đại hai ngàn năm trở lên, không biết nơi đây thì thế nào.

Bên ngoài căn lều, tiếng gió vẫn tiếp tục gào thét, trong lều tiếng ngáy đều đều vang lên, hết thảy đều không cản được cơn buồn ngủ vì mệt mỏi suốt một ngày dài, tôi kéo chăn trùm kín người, rốt cuộc cũng chìm vào giấc ngủ.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét