CHƯƠNG 3 - THỜI NIÊN
THIẾU - RỐT CUỘC CŨNG BIẾT LÀ Ở ĐÂU RỒI
Sáng
sớm ngày hôm sau, chúng tôi nhổ trại lên đường. Sức khỏe của tôi đã hoàn toàn hồi
phục. Tôi ăn của người ta, ở nhà người ta, cho nên không thể không biết xấu hổ
mà ăn không ngồi rồi, bèn định xắn tay áo lên giúp họ một tay. Nhưng mà nghĩ
trong đầu và thực hành trong thực tế là hai việc khác nhau, tóm gọn lại là, lực
bất tòng tâm, vì không hiểu họ nói cái gì, lúc thu dọn lều trại cũng nhờ sự
giúp đỡ của tôi mà họ càng thêm vướng tay vướng chân. Cũng may mà đoàn người
này dù là nam hay nữ cũng đều rất thân thiện, tôi có làm hư chuyện này chuyện nọ
họ cũng không nói gì. Đương nhiên là, cho dù họ có nói đi nữa tôi cũng có nghe
hiểu gì đâu!
Để tạo sự thuận tiện nhiều hơn cho tôi,
họ đã dành riêng một con lạc đà cho tôi cưỡi, nhưng mà bộ Hán phục mà tôi mặc
có phần tay áo rất lụng thụng, phần váy cũng dài đến mắt cá chân, về cơ bản là
không cách nào leo lên lạc đà được. Bởi vì tôi cho rằng mình sẽ trở về thời Tần
Hán, cho nên tôi đều ăn mặc phục sức theo lối điển hình của thời nhà Hán. Tôi hết
nhìn rồi lại nhìn váy áo luộm thuộm vô tích sự của mình, nhếch miệng cười ngượng
nghịu với tiểu hòa thượng.
Cậu ấy mỉm cười dịu dàng, quay sang nói
líu lo gì đó với một người phụ nữ trung niên trong đoàn. Chỉ một lúc sau họ
mang đến cho tôi môt bộ trang phục giống với những người phụ nữ khác. Tôi thay
quần áo, có hơi rộng một chút so với thân hình tôi. Đành chịu thôi, ai bảo vóc
dáng trung bình của những người này lại cao to như thế. Vai phải để trần, bên
vai trái là ống tay áo dài hẹp thả xuống, thân áo dài đến đầu gối, vạt trước để
hở, phía dưới là quần thụng ống túm, mang ủng cao đến gối, a ha ha, nom cũng rất
fashion chứ đùa. Phụ nữ thời Hán làm gì dám mặc áo hở vai? Mà điều quan trọng nhất
là: leo lên leo xuống lạc đà rất thuận tiện. Sáng sớm ở sa mạc, trời vẫn còn rất
lạnh, tiểu hòa thượng rất tinh ý đưa cho tôi một chiếc khăn choàng.
Tôi đếm tới đếm lui, đoàn người này tổng
cộng có gần sáu mươi người, nhưng tính cả tôi nữa cũng chỉ có năm người phụ nữ.
Ngoại trừ tiểu hòa thượng, hơn năm mươi người đàn ông còn lại đều có vẻ là binh
lính, mang vũ khí tùy thân hạng nặng – trường kiếm. Nhìn điệu bộ của họ, tất cả
đều coi hai mẹ con người xuất gia kia là trung tâm.
Tôi vẫn còn có chút buồn bực, mặc dù
tôi đã từng nhìn thấy hòa thượng hoặc ni cô mang theo người hầu tùy thân, nhưng
tôi chưa từng thấy hòa thượng hoặc ni cô nào lại dẫn theo cả một đội quân bên
mình. Quan sát ngôn hành cử chỉ của họ, hết thảy đều toát ra phong thái cao sang
không thể chối cãi, thân phận địa vị của hai người này chắc chắn không tầm thường.
Do tiểu hòa thượng là người có trình độ tiếng Hán cao nhất trong cả đoàn người,
người mẹ xinh đẹp của cậu ấy hoàn toàn không thể sánh kịp, cho nên tôi thường cưỡi
lạc đà sóng đôi với cậu để thăm dò tình hình.
Mặc dù giao tiếp vẫn còn khó khăn, tuy
nhiên tôi đã tìm hiểu được không ít tình hình.
Tôi hỏi cậu có biết người Hán ở Trung
Nguyên bây giờ do vương triều nào thống trị hay không. Cậu suy nghĩ hồi lâu mới
bật ra được một âm nghe từa tựa như TẦN/THANH. Vậy thì có lẽ là Tần rồi, chắc
chắn không thể nào là nhà Thanh được. Tổ chuyên gia đã nói lần trở về quá khứ
này chỉ có tác dụng cộng hưởng đối với khoảng thời gian trên dưới hai ngàn năm
về trước mà thôi.
Tôi lại hỏi cậu ta học tiếng Hán ở đâu,
cậu hoa tay múa chân hết nửa ngày tôi mới hiểu được một chút, là do hai vị sư
huynh người Hán ở Ku Zi đã dạy cậu. Tiểu hòa thượng ngượng ngùng nói cậu chỉ mới
học được có vài tháng, hơn nữa đã năm năm chưa từng mở miệng nói tiếng Hán, cho
nên nói rất kém.
Tôi kinh ngạc đến sững cả người. Nhìn cậu
ta kiểu gì cũng không có vẻ lớn hơn mười sáu tuổi, điều này chứng tỏ cậu ấy đã
học chữ Hán từ hồi mười, mười một tuổi rồi. Với cái tuổi còn nhỏ như vậy, lại
còn không mở miệng nói suốt năm năm, vậy mà vẫn có thể nói được đến trình độ như
thế, trí nhớ của tiểu hòa thượng này quả thật quá kinh khủng. Hồi đại học tôi từng
chọn ngoại ngữ tự chọn là tiếng Đức, chỉ sau hai năm không đụng tới, bây giờ
tôi chỉ nhớ có mỗi ICH LIEBE DICH (I love
you), bảo tôi nói chuyện với người Đức à, bảo đảm ông nói gà bà nói vịt cho mà
xem.
Do rơi xuống vùng hoang mạc, nên những địa
phương tôi liên tưởng đến nếu không phải Tây Vực thì cũng là Mông Cổ, bởi vậy
tôi lại hỏi tiểu hòa thượng có biết con đường tơ lụa hay không, cậu ta nghe
không hiểu gì. Nhưng khi tôi giải thích về tơ lụa và lá trà từ đất Trung Nguyên
bán sang cho Taziks (nay là một nước thuộc khu vực Ả Rập), Ba Tư (nay là Iran),
Tachin (nay gọi là La Mã), thì cậu ấy bắt đầu vỡ lẽ. Cậu nói Ku Zi cũng nằm trên
con đường này. Nghe cậu ấy nói như vậy, tôi như nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm.
Sau đó tôi cố hết sức nhớ lại những địa
danh liên quan đến con đường tơ lụa, Qarasahr (Yên Kỳ), Kroran (Lâu Lan), Shule
(Sơ Lặc) (nay thuộc địa khu Kashgar ở Tân Cương), Lâu Lan, Hòa Điền (nay thuộc
huyện Hòa Điền, Tân Cương), Kocho (nay thuộc địa cấp thị Turfan, Tân Cương),
Wusun (nay thuộc địa khu Ili, Tân Cương), Đôn Hoàng... Có những cái cậu ta suy
nghĩ một chút, sau đó đáp lại tôi bằng một phát âm tương tự, tuy nhiên vẫn rất
mơ hồ. Khi tôi nói đến Kucha (Khâu Từ), tôi đột nhiên ngưng bặt. Ku Zi? Kucha
(nay thuộc địa khu Kuchar, Tân Cương). Hai cách phát âm này tương đối giống
nhau, đó không phải là quốc gia nằm trên con đường tơ lụa, có nền văn hóa phát
triển đặc sắc nhất và cũng có ảnh hưởng lớn nhất trong khu vực - đất nước Kucha
(Khâu Từ) - đấy chứ?
Tôi nhìn cậu ấy, đọc lại một lần cái
tên Kucha, cậu ta lại suy nghĩ, rồi gật gật đầu, đưa tay chỉ chỉ vào mình. Trời
ơi, tôi rốt cuộc đã biết mình đang ở đâu rồi. Tôi đã ngược thời gian và không
gian đến Tây Vực!!! Tây Vực thời nhà Tần!!!
Như vậy là tôi đã gặp gỡ một đoàn người
Kucha, chính là người Tochari. Tôi nhớ đã từng đọc một tài liệu nói rằng tổ
tiên của người Tocha là người Nguyệt Chi, hay còn gọi là người Tochari. Đặc trưng
chiếc đầu dài, sống mũi cao, đôi mắt sâu, đôi môi mỏng, hơn nữa còn có làn da
trắng bóc, đây chính là chủng người Proto-Indo-Europeans (người Ấn-Âu nguyên thủy).
Vào khoảng một ngàn năm trước công nguyện, người Tochari chấm dứt cuộc sống du
mục, bắt đầu định cư, tạo thành dải Kocho, Qarasahr, Turfan (Thổ Phồn). Hồi đi
du lịch Tân Cương tôi từng tham quan rất nhiều viện bảo tàng, thứ tạo cảm hứng
nhất chính là những chiếc xác ướp, những chiếc xác ướp có tuổi thọ hơn ba ngàn
năm trong tình trạng bảo tồn gần như hoàn hảo, trên khuôn mặt vẫn rất dễ nhận
ra những đặc trưng của người châu Âu, nổi tiếng nhất chính là xác ướp có tên
'Người đẹp Lâu Lan'. Có điều là, Kucha tọa lạc tại vị trí xung yếu trên con đường
tơ lụa, có rất nhiều chủng người quần cư, người Kucha được hình thành do sự lai
tạp giữa các chủng người, cho nên so với người Ấn-Âu hiện tại, khuôn mặt của họ
hơi tròn hơn một chút.
Sau cơn phấn khích, tôi liền nhanh
chóng ỉu xìu. Ghi chép về Tây Vực thời nhà Tần vô cùng ít hỏi, chỉ có 'Tây Vực truyện'
trong 'Hán Thư' là có nhắc đến. Lịch sử Tây Vực trong dòng chảy ký ức của người
Hán chỉ bắt đầu từ thời của Hán Vũ Đế: Trương Khiên sang Tây Vực, cầu thân với
Wusun, đóng quân đồn trú, khói lửa can qua với Hung Nô suốt mấy trăm năm. Có điều,
khi biết được thời đại tôi đáp xuống là thời Tần, tôi vẫn ôm rất nhiều kỳ vọng.
Tôi phải nhanh chóng đến Trường An mới được, nói không chừng còn có thể chứng
kiến cuộc dân biến vĩ đại cuối thời nhà Tần, tìm hiểu thêm một chút về những
nhân vật vang dội lẫy lừng trong lịch sử.
Tôi lại lần nữa bày tỏ nỗi nhớ nhà, ý
nguyện muốn nhanh chóng trở về Trường An, tiểu hòa thượng trầm tư một lúc, nói
cậu ta có thể sắp xếp. Có điều đường sá rất xa xôi, có khi mất cả năm mới đến được.
Hơn nữa khắp nơi binh đao chiến loạn, vô cùng nguy hiểm.
Hả? Đã bắt đầu chiến tranh rồi à? Vậy
thì tôi càng không thể trì hoãn nữa. Tôi vui vẻ nói đi nói lại, không sao không
sao hết, cậu ta nhìn tôi với vẻ kỳ lạ, trong đôi mắt màu xám nhạt tràn đầy sự
kinh ngạc. Tôi không biết phải giải thích như thế nào với cậu ấy việc một cô
gái lại cảm thấy hứng thú đối với chiến tranh gươm giáo như vậy, chỉ biết ha ha
cười ngu cho qua chuyện.
Cứ nói chuyện như vậy, trời đã gần trưa.
Tuy đã vào thu, nhưng mặt trời ban trưa vẫn rất gay gắt, tôi trùm chiếc khăn
choàng lên đầu che nắng. Tiểu hòa thượng thì kéo tăng bào xuống, để lộ ra phần
vai phải để trần, dưới ánh mặt trời, làn da rám nắng ánh lên vẻ sáng bóng khỏe
mạnh của tuổi trẻ. Loại tăng phục để trần bên vai phải này, là tăng phục phổ biến
của những tăng nhân Thiên Trúc và Tây Vực. Sau này khi Phật giao lưu truyền đến
Trung Nguyên, tăng phục đã có sự cải tiến cho thích hợp. Nguyên nhân là do vấn đề
khí hậu mà ra, bởi vì Ấn Độ khí hậu nóng, Tây Vực lại nằm trong sa mạc Gobi, có
sự chênh lệch nhiệt độ rất lớn giữa ngày và đêm. Bởi vậy, loại y phục mà buổi
sáng và buổi tối có thể choàng thêm, buổi trưa để vai trần là thích hợp nhất với
khí hậu nơi này.
Sau đó, tôi thấy gương mặt của cậu ta dần
dần đỏ ửng, ánh mắt dời sang chỗ khác không nhìn tôi nữa. Lúc này tôi mới ý thức
được mình đã nhìn tăng phục của cậu ấy quá lâu, chẳng trách cậu ấy ngượng ngùng
như vậy. Loại tăng phục này tôi chỉ mới được nhìn thấy qua những bức bích họa,
bây giờ lại được thực mục sở thị, thế là cứ dán mắt vào đấy soi mói không rời,
phép lịch sự gì gì đó đều bị tôi vứt đâu mất sạch. Cũng không thể giải thích với
cậu ấy rằng tôi chỉ đang nghiên cứu, thế là tôi đành cười ha ha lấp liếm cho
qua.
Đến một cánh rừng dương nhỏ, chúng tôi
nghỉ ngơi một chút. những người hầu nhanh chóng bắt tay dựng lều bạt đơn giản, đi
gom củi khô về nấu mì. Sau khi món mì cùng với lương khô, còn gọi là 'nang'
trôi xuống bụng, cả người tôi cảm thấy thoải mái đến độ chỉ muốn nhắm mắt làm
ngay một giấc. Hai mẹ con ni cô sau khi ăn xong thì vào lều tụng kinh, trên đầu
gối họ, một quyển kinh được mở ra, tôi rất hiếu kỳ, liền bước đến nhìn thử, kết
quả tôi kinh ngạc giật bắn cả mình.
Kinh văn được viết
trên một tấm lụa, tự dạng vô cùng kỳ lạ, có lẽ là chữ tượng hình, những ký tự
như những ký hiệu vô cực ∞ trình bày theo hàng lối. Tuy tôi không thể hiểu được,
nhưng tôi đã được nhìn thấy thứ chữ này trước đây, văn tự này chính là văn tự đã
thất truyền từ rất lâu của người Tochari. Là ngôn ngữ Ấn-Âu nguyên thủy sơ khai
nhất mà con người thời nay biết đến, được phát triển trên nền tảng chữ Brahmi của
Ấn Độ, đến thời hiện đại vẫn chưa được giải mã hoàn toàn.
Tôi kích động đến nỗi gần như nằm bẹp
xuống săm soi bản kinh trên đầu gối của cậu chàng hòa thượng đẹp trai, miệng lẩm
bẩm như lên đồng: "Trời ơi, đây chính là ngôn ngữ Tochari, chính là ngôn
ngữ Tochari đó trời ơi!" Nếu có thể đưa trọn vẹn quyển kinh này về thời hiện
đại, có lẽ nó sẽ có giá trị nghiên cứu vô cùng to lớn.
Ni cô xinh đẹp khẽ nhíu mày. Tiểu hòa
thượng ban đầu bị tôi dọa nhạy dựng, nghe thấy mấy lời lẩm bẩm của tôi thì hỏi
với vẻ khó hiểu: "Cô biết nó à? Đây là văn tự của Kucha (từ giờ sẽ gọi là
Khâu Từ), không gọi là Tochari."
A, đúng rồi nhỉ,
'Tochari' là cách gọi của người Đức, người Khâu Từ lúc này đương nhiên sẽ không
gọi ngôn ngữ của mình là 'Tochari'. Chỉ có điều ở thời hiện đại, mọi người đều đã
mặc nhiên thừa nhận cách gọi này. Tôi cười ngượng ngập, vẫn cố dán mắt vào những
ký tự loằng ngoằng như ký hiệu vô cực ∞, trong lòng tràn ngập niềm hưng phấn vì
vừa được tiếp xúc với ngôn ngữ Tochari đang sống sờ sờ trước mắt.
Tôi là một người
nghiên cứu lịch sử, có thể được nghe lại một ngôn ngữ đã thất truyền từ rất lâu
là một việc có giá trị lịch sử rất lớn, tưởng chừng không thể nào cân đo đong đếm
nổi. Để có thể giải mã được những văn tự đã chết, biết bao nhiêu nhà ngôn ngữ học
đã dốc tâm huyết cả đời tìm tòi đánh vật với những chồng giấy vụn tàn tích. Vào
thế kỷ thứ 18, một nhà khoa học người Pháp là Jean-François Champollion đã giải
mã thành công chữ tượng hình Ai Cập, bóc tách những bí ẩn đã chôn vùi suốt hàng
ngàn năm, cuối cùng ông đã lưu danh sử sách. Hiện nay, việc đọc hiểu ngôn ngữ
Tochari vẫn còn đang dang dở chưa đâu vào đâu, nên nếu như tôi có thể đọc được
chữ Tochari...
Tôi níu chặt ống
tay áo rộng của tiểu hòa thượng: "Cậu... làm ơn, dạy tôi, chữ Tochari, à,
không, chữ Khâu Từ, được không?"
Trước tiên cậu ta
sửng sốt, sau đó hỏi lại tôi một câu rất trật đường rầy: "Cô biết chữ Hán đúng
không?"
Đến lượt tôi sững
người: "Đương nhiên."
Cậu ta quay đầu lại
nói chuyện với ni cô xinh đẹp bên cạnh. Ni cô lại nhìn sang tôi, rồi trả lời lại
cậu ta mấy câu. Hai người cứ nói chuyện xì xà xì xồ như thế, khiến lòng tôi
càng lúc càng hoang mang tợn. Đang khi tôi lo lắng sẽ bị họ từ chối, thì nhìn
thấy cậu ấy quay lại đối mặt với tôi, trong đôi mắt màu xám nhạt chợt lóe lên một
nét cười tinh quái: "Tôi có thể dạy cô, với điều kiện cô phải day tôi tiếng
Hán."
Tôi thở phào một hơi
nhẹ nhõm, thì ra là trao đổi công bằng, như vậy cũng rất tốt.
"Đương nhiên
là được." Tôi chần chừ một chút rồi bổ sung thêm, "Có điều tôi không
rành về kinh Phật cho lắm, nếu nói về Luận Ngữ, Kinh Thi, Tả Truyện hay Chiến
Quốc Sách còn may ra."
Tôi học chuyên
ngành lịch sử, không phải chuyên ngành Phật học. Tuy về lịch sử Phật giáo tôi
có thể tán đôi chút, nhưng cụ thể Tam Tạng Kinh, Pháp, Luận như thế nào, tôi chỉ
có thể ngậm ngùi thừa nhận mình dốt đặc cán mai, một chữ cũng không biết. Bây
giờ tôi đã bắt đầu hơi ân hận, nếu biết trước mình sẽ vượt thời gian về làm bạn
với giới tăng lữ thế này, thì tôi đã đi trau dồi thêm vài lớp bồi dưỡng về kiến
thức Phật giáo rồi.
"Không cần
kinh Phật đâu, cô nói về những thứ kia là được rồi." Xem ra cậu ta rất vui
vẻ, đầu mày cuối mắt đều tràn ngập nét cười rạng rỡ như ánh mặt trời.
Tôi đột nhiên nghĩ
đến một chuyện, kinh Phật ở Trung Nguyên đều được phiên dịch từ tiếng Phạn và
các quốc gia vùng Tây Vực, cậu ấy là một tăng nhân người Khâu Từ, sao lại học chữ
Hán ở chỗ tôi nhỉ, tăng nhân người Hán phải học hỏi ở cậu ấy mới đúng chứ!
Hôm ấy tôi còn
phát hiện một số việc rất thú vị: hai mẹ con người tu hành này sau bữa cơm trưa
sẽ không ăn thêm bất cứ thứ gì nữa. Người cổ đại ăn một ngày hai bữa cơm, người
tu hành lại càng nghiêm ngặt hơn. Tôi có nhớ mang máng tăng nhân đúng là không ăn
gì sau giờ Ngọ. Tôi nêu thắc mắc với cậu ấy, cậu ấy nói với tôi bằng tiếng Hán
vẫn chưa được trôi chảy lắm của mình, giới luật quy định, thời gian từ sáng đến
trưa là có thể ăn uống, từ sau giờ Ngọ cho đến sáng sớm ngày hôm sau sẽ không được
ăn gì cả.
Nguyên nhân có giới
luật này là, một vị đệ tử Sa môn đi khất thực vào chạng vạng tối, do trời tối
không thấy đường, một người phụ nữ có thai đã nhầm tưởng người ấy là yêu quái,
bà quá sợ hãi dẫn đến sinh non, cho nên Phật Thích Ca mới đặt ra giới luật này.
Nhưng mà đối với người bệnh hoặc người phải lao động cực nhọc, để duy trì thể lực
bắt buộc phải bồi dưỡng bằng thức ăn, họ vẫn có thể ăn cơm tối.
Tôi gật gật đầu,
trong lòng nghĩ, vào thời đại của Phật Thích Ca, hơn phân nửa tăng lữ đều tọa
thiền, thể lực tiêu hao không nhiều, cho nên sau giờ Ngọ không ăn cơm cũng
không có vấn đề gì cả. Nhưng sau khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, tăng lữ đều
ăn bữa tối. Đó là vì ở Trung Nguyên, đại đa số tăng lữ đều phải ra đồng làm ruộng,
cho nên giới luật phải được sửa lại cho hợp lý. Qua đó có thể thấy rằng, trong
những thời điểm khác nhau, tại những địa phương khác nhau, có thể đặt ra hoặc
thay đổi giới luật, điều này thể hiện tính linh hoạt của Phật giáo, thảo nào đã
trải qua hơn hai ngàn năm mà Phật giáo vẫn phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc như
vậy.
Quan sát cách họ ăn
cơm, rồi lại nhìn họ uống nước, cũng có những phát hiện rất thú vị. Những thị nữ
sẽ dùng một thứ gì đó giống như túi lưới, đầu tiên là lọc sạch, sau đó mới đưa đến
cho họ. Tôi vừa bắt đầu cho rằng nước lấy trong sa mạc sẽ có lẫn tạp chất, nồng
độ muối kiềm khá cao, cho nên cần phải lọc qua một lượt. Nhưng khi thấy nước
mình uống không trải qua thao tác lọc, tôi mới cảm thấy thắc mắc.
Cậu ấy lại ngọng
nghịu giải thích cho tôi biết: người tu hành phải uống nước đã được lọc là vì để
tranh uống phải những vi sinh vật trong nước vào bụng, gây ra việc vô ý sát
sinh, theo quy định trong giới luật, tăng lữ phải luôn mang theo túi lọc bên người,
không có túi lọc thì không thể đi xa khỏi nơi ở quá hai mươi dặm.
Sau khi nghe cậu
ta giải thích, tôi lập tức nhớ ra ngay, lúc pháp sư Huyền Trang đi vào một vùng
sa mạc hoang vu không có người ở, từng phải đổ bỏ toàn bộ nước trong túi da,
suýt chút nữa chết khát. Sở dĩ ngài phải đổ bỏ hết những giọt nước quý giá ấy
là vì quá mức tuân thủ giới luật, phải lọc nước một cách nghiêm ngặt mới uống.
Buổi tối, tôi ngồi
cạnh đống lửa bên ngoài lều ghi ghi chép chép về những điều đã khảo sát được,
tôi cẩn thận ghi lại hết thảy những gì mình đã nghe, đã thấy. Trên đỉnh đầu,
sao giăng lấp lánh đầy trời, tựa những đốm đèn điện nhấp nháy lập lòe trên bức
màn nhung màu xanh sẫm.
Tôi đã từng ngẩng đầu ngắm nhìn bầu trời đêm trong veo quang
đãng ở Tân Cương thế kỷ 21, khi đó tôi từng nghĩ, không biết người cổ đại có
nhìn thấy cùng một bầu trời đêm giống tôi hay không? Bây giờ khi tôi ngắm nhìn
sao đêm, có phải bầu trời bây giờ so với ở thời hiện đại lại càng trong trẻo
thuần khiết hơn không nhỉ? Vấn đề này khiến tôi rơi vào trạng thái mơ màng trầm
tư, nhưng càng nghĩ lại càng không cách nào trả lời được. Có phải có hai tôi ở hai
thế giới song song đang đồng thời ngẩng mặt ngắm trời cao như thế này không?
Tôi này và tôi đó, rốt cuộc là đang tồn tại như thế nào?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét